Chuyển biến mạnh mẽ về tư duy
Năm 2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120 về Phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghị quyết xác định thay đổi tư duy phát triển từ trồng lúa thuần túy sang phát triển nông nghiệp đa dạng. Tôn trọng quy luận tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên, lựa chọn mô hình thích ứng tự nhiên, thân thiện môi trường.
Đáng chú ý, Nghị quyết số 120 đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về tư duy của các cấp, các ngành trong xây dựng chính sách, xác định các chương trình chiến lược, các dự án cấp bách.
Thực tiễn, 3 năm triển khai Nghị quyết cho thấy, việc kế thừa các chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước cùng với tích hợp, lồng ghép kết quả các chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ, các dự án phát triển đã tạo đà mạnh mẽ cho ĐBSCL.
Tại Tọa đàm với chủ đề: “3 năm triển khai Nghị quyết “thuận thiên”: Biến thách thức thành cơ hội phát triển” Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) Tăng Thế Cường; GS.TS Trần Thục, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn của Ủy ban Quốc gia về Biến đổi khí hậu; Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT) Trần Công Thắng đã đưa ra những nhận định, số liệu để khẳng định Nghị quyết số 120 đã thay đổi toàn diện bộ mặt vựa lúa Chín Rồng.
Các chuyên gia tham dự Toạ đàm
Diện mạo mới để ĐBSCL bứt phá toàn diện
* Ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường): Nguồn lực đầu tư lớn để ĐBSCL cất cánh
Tổng số vốn đầu tư cho ĐBSCL so với cả nước tăng từ 12,2% (giai đoạn 2011 - 2015) lên 16,53% (giai đoạn 2016 - 2020).
Đầu tư qua địa phương đạt khoảng 200.000 tỷ đồng. Đầu tư qua Bộ, ngành: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: 28.200 tỷ đồng; Giao thông vận tải: 32.961 tỷ đồng; Y tế: 947,5 tỷ đồng; Công Thương đầu tư cấp điện nông thôn 615 tỷ đồng; Chương trình mục tiêu qua Bộ Tài nguyên và Môi trường: 5.256 tỷ đồng… Hỗ trợ đầu tư có mục tiêu 42.322 tỷ đồng; trái phiếu Chính phủ 20.673 tỷ đồng.
Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới, tổng số vốn đầu tư hỗ trợ từ các đối tác phát triển cho các chương trình dự án đã và đang hỗ trợ cho vùng ĐBSCL tính đến năm 2019 là khoảng 2,48 tỷ USD.
Ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường)
Hiện nay, Chính phủ đang xem xét thông qua Chương trình hỗ trợ ngân sách có mục tiêu phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH với số vốn 1,05 tỷ USD. Riêng Bộ Giao thông Vận tải đã đề xuất chủ trương đầu tư 38 dự án cho ĐBSCL với số vốn 94.500 tỷ đồng cho giai đoạn 2021 - 2025.
Về liên kết vùng, hàng loạt tuyến cao tốc đã được triển khai như: Cầu Mỹ Thuận 2 trên tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông, tuyến cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận và Mỹ Thuận - Cần Thơ, Quốc lộ 57 Bến Tre - Vĩnh Long, Quốc lộ 53 Trà Vinh - Long Toàn, Quốc lộ 30 Cao Lãnh - Hồng Ngự.
Hiện, TP. HCM đã liên kết với 13 tỉnh, thành phố ĐBSCL để thực hiện kết nối kinh tế và kết nối hạ tầng giao thông. Gần 1.200 dự án khoảng 280.000 tỷ đã được các doanh nghiệp TP.HCM ký kết với các tỉnh ĐBSCL góp phần hình thành mạng lưới sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nội địa và tạo nguồn xuất khẩu nông, lâm, thủy sản.
Thông qua qua Nghị quyết, người dân và cơ quan chức năng đã xác định việc sống chung và coi lũ, nước mặn, nước lợ là tài nguyên để phát triển kinh tế với phân vùng hợp lý trên cơ sở phân bổ tài nguyên nước của toàn vùng.
Bằng chứng là đợt hạn mặn kỷ lục 2019 - 2020, nhờ phân vùng, chuyển đổi sản xuất đã giảm được thiệt hại. Riêng diện tích lúa chịu ảnh hưởng của đợt hạn mặn vừa qua chỉ bằng khoảng 10% so với đợt hạn mặn năm 2015 - 2016.
* GS, TS Trần Thục, Phó Chủ tịch Hội đồng Tư vấn của Ủy ban Quốc gia về BĐKH: Liên kết mạnh mẽ hơn nữa để bứt phá toàn diện
Nghị quyết số 120 đã giúp các địa phương chấp nhận tổn thất do biến đổi khí hậu. ĐBSCL lượng phù sa đang giảm, sạt lở bờ sông ngày càng diễn ra trên diện rộng. Thay vì bỏ ra chi phí lớn để kè tất cả bờ sông, chúng ta đã xác định được những khu vực quan trọng, những thành phố lớn.
Về chuyển đổi mục đích sử dụng tài nguyên, nhận định trước đây nguồn lực về nước, phù sa lớn để phát triển thủy sản. Tuy vậy, theo tôi với tác động như hiện tại, việc phát triển như cũ khó có thể thực hiện.
Vùng ven biển nước ngọt thiếu, khô hạn, xâm nhập mặn như vậy khó có thể trồng lúa. Người dân đã tìm tìm cách chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản và đạt được kết quả, nhất là ở Cà Mau.
Tôi cho rằng, cần ba yếu tố để để phát huy hơn nữa tiềm năng của ĐBSCL là nước sạch, giống và đầu ra. ĐBSCL đang thiếu nước mặn sạch, nước ngọt sạch để nuôi trồng thủy sản.
Giống lúa, cây ăn quả chúng ta đã có nhiều, chất lượng nhưng giống thuỷ sản chưa có nhiều. Tôi cho rằng, thủy sản và cây ăn quả rất cần đầu ra để việc sản xuất đạt hiệu quả cao nhất.
GS.TS Trần Thục, Phó Chủ tịch Hội đồng Tư vấn của Ủy ban Quốc gia về Biến đổi khí hậu
Mặc dù, chúng ta đã và đang đạt được nhiều kết quả khả quan nhưng việc triển khai Nghị quyết số 120 vẫn còn nhiều hạn chế như: Sự thiếu chủ động trong liên kết giữa các Bộ, ngành, địa phương, thu hút nguồn lực còn chưa tương xứng với kỳ vọng... Theo đó, chúng ta cần sớm quy hoạch tổng thể vùng ĐBSCL để thu hút được sự tham gia của đối tác trong và ngoài nước mà các địa phương và người dân là thành tố quan trọng nhất.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần xem xét kỹ lưỡng về việc các cộng đồng được hưởng lợi và những đối tượng chịu thiệt hại khi quy hoạch tổng thể, đồng thời, lắng nghe, tận dụng vốn kiến thức của người dân địa phương trong quy hoạch.
Bên cạnh đó, thời điểm tới, khi tình trạng xâm nhập mặn, mất phù sa diễn ra ngày càng mạnh, tôi cho rằng, cần có chiến lược tập trung dồn lực phát triển cho các thành phố lớn, các vị trí quan trọng càng sớm càng tốt, trong đó, xem xét chấp nhận tổn thất diện tích đất bị xâm nhập mặn để chuyển đổi mục đích sử dụng.
* Ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Chính sách và chiến lược phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn): Tăng trưởng nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất nước
Trong điều kiện dịch bệnh, hạn hán nhưng tăng trưởng ngành nông nghiệp ở ĐBSCL đạt 4,7%, cao hơn trung bình cả nước.
Ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Chính sách và chiến lược phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lục của nước ta cũng tập trung chủ yếu ở khu vực này. Lúa gạo chiếm tới hơn 80%, ca tra chiếm trên 90%, tôm trên 60%. Chúng ta bắt đầu có chuyển biến trong sản xuất, chuyển từ vùng có rủi ro cao hơn, nhiều vùng trồng lúa kém đã được chuyển sang trái cây, thủy sản.
Các chuyên gia tham dự buổi Toạ đàm
Tại tọa đàm, các chuyên gia cũng cho rằng, hiện nay chưa có cơ chế đặc thù riêng cho vùng ĐBSCL vì vẫn phải trong khuôn khổ phát triển chung của đất nước nên việc lập hội đồng điều phối vùng chính là nền móng ban đầu, từ đó tháo gỡ rào cản, giải phóng nguồn lực cho sự phát triển của vùng ĐBSCL trong thời gian tới.
Khương Trung