Nhân sự kiện Ngày Trái đất, để một lần nữa phát đi thông điệp bảo vệ hành tinh xanh của chúng ta, phóng viên Báo Tài nguyên và Môi trường đã có cuộc trò chuyện với ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ TN&MT).
PV: Thưa ông, Việt Nam là quốc gia tích cực tham gia bảo vệ hệ thống khí hậu của Trái đất, được thể hiện rõ nét trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, Quốc hội và Chính phủ. Quyết tâm mạnh mẽ này đã tạo tiền đề quan trọng thế nào trong ứng phó với BĐKH giảm phát thải khí nhà kính của Việt Nam?
Ông Tăng Thế Cường:
Là một Bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH, thời gian qua, dù còn gặp nhiều khó khăn, Việt Nam luôn là một thành viên tích cực và trách nhiệm, chung tay cùng cộng đồng quốc tế trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu. Điều này được thể hiện qua những quyết sách mạnh mẽ, thể hiện quyết tâm cao của Đảng, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam trong ứng phó với BĐKH như Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chiến lược quốc gia về BĐKH, Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh,… và gần đây là Kế hoạch quốc gia thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH.
TS. Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu |
Trong nước, Đảng, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam đã xác định việc chủ động ứng phó với BĐKH là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đòi hỏi sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị. Đây là tiền đề quan trọng để các Bộ, ngành và địa phương trên cả nước thực hiện tái cấu trúc mô hình phát triển, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, địa phương theo hướng kinh tế xanh, phát thải các bon thấp vì mục tiêu phát triển bền vững. Trọng tâm phát triển đã dần được điều chỉnh từ việc phụ thuộc hoàn toàn vào các nguồn nhiêu liệu hóa thạch sang các nguồn năng lượng tái tạo, ưu tiên phát triển các công nghệ sạch, xanh, tiên tiến. Đơn cử như trong lĩnh vực năng lượng, năng lượng tái tạo, dù hiện có giá thành sản xuất cao nhưng vẫn được Chính phủ tạo điều kiện ưu tiên phát triển…
Đối với quốc tế, Việt Nam hiện là Bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp quốc về BĐKH, Nghị định thư Kyoto, Thỏa thuận Paris về BĐKH, Nghị định thư Montreal về bảo vệ tầng ô-dôn. Trong thời gian qua, chúng ta đã tích cực tham gia thực hiện Công ước và các Nghị định thư này.
Để thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) như đã cam kết khi tham gia Thỏa thuận Paris, Chính phủ đã giao Bộ TN&MT chủ trì xây dựng Nghị định của Chính phủ quy định lộ trình và phương thức giảm nhẹ phát thải khí nhà kính nhằm đảm bảo hiệu lực pháp lý đủ mạnh để đạt được các cam kết giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của Việt Nam từ nay đến 2030 và tạo tiền đề cho giai đoạn tiếp theo. Qua đó, có thể thấy được quyết tâm của Đảng, Quốc hội và Chỉnh phủ về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, hướng tới xây dựng nền kinh tế xanh, phát triển bền vững trong trung và dài hạn.
PV: Ông đánh giá như thế nào về những kết quả ứng phó với BĐKH trong thời gian qua tại Việt Nam?
Ông Tăng Thế Cường:
Quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Đảng, Quốc hộ và Chính phủ Việt Nam về ứng phó với BĐKH nói chung và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính nói riêng trong thời gian qua tại Việt Nam đã được hiện thực hóa. Chúng ta đã một số kết quả ban đầu quan trọng như sau:
Đối với quốc tế, Việt Nam đã tham gia tích cực và trách nhiệm trong hợp tác toàn cầu về ứng phó với BĐKH. Điều đó, thể hiện qua việc Việt Nam thực hiện đầy đủ trách nhiệm của Bên tham gia Công ước, Nghị định thư Kyoto, cũng như tích cực tham gia quá trình đàm phán xây dựng Thỏa thuận Paris, mở ra kỷ nguyên mới về ứng phó với BĐKH toàn cầu. Những nỗ lực này của Việt Nam được cộng đồng quốc tế đáng giá cao, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên chính trường quốc tế.
Trong nước, các Bộ, ngành và địa phương đã có những chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động về BĐKH, chủ động lồng ghép BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Điều này cho thấy, quyết tâm chính trị mạnh mẽ của Đảng, Quốc hội và Chính phủ về ứng phó với BĐKH đã tạo được hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong toàn bộ hệ thống chính trị của Việt Nam.
Về tổ chức, Ủy ban Quốc gia về biến đổi khí hậu được thành lập do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch. Bộ TN&MT được giao làm cơ quan đầu mối, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổng hợp, theo dõi tiến độ của công tác ứng phó với BĐKH tại Việt Nam.
Về nguồn lực, chúng ta đã đẩy mạnh huy động, thu hút các nguồn lực tài chính, công nghệ trong nước và quốc tế cho thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính thông qua hợp tác đa phương, song phương. Trong đó, nổi bật là từ năm 2010 đến nay, Chương trình hỗ trợ ứng phó BĐKH (SP-RCC) đã thu hút được 1,4 tỷ USD từ nguồn hỗ trợ quốc tế cho công tác ứng phó. Việt Nam đã có 257 dự án Cơ chế Phát triển sạch (CDM) và 10 Chương trình hoạt động CDM (PoA) được Ban Chấp hành quốc tế về CDM (EB) đăng ký với tổng lượng giảm phát thải khí nhà kính ước tính hằng năm tương ứng trong thời kỳ tín dụng là trên 140 triệu tấn CO2 tương đương… Việt Nam cũng là một trong những quốc gia sớm tham gia thực hiện Cơ chế Tín chỉ chung (JCM) hợp tác với Nhật Bản, qua đó, tạo điều kiện để tiếp nhận chuyển giao công nghê giảm phát thải khí nhà kính cho các doanh nghiệp tham gia Cơ chế này.
Tăng cường trữ lượng Các bon sẽ giảm phát thải khí nhà kính |
Các kết quả nêu trên sẽ là những tiền đề quan trọng để công tác ứng phó với BĐKH và đặc biệt là giảm nhẹ phát thải khí nhà kính tại Việt Nam tiếp tục vượt qua khó khăn để đóng góp mạnh mẽ hơn nữa trong việc phát triển mô hình kinh tế xanh, phát thải các bon thấp hướng tới mục tiêu phát triển bền vững như định hướng của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đặt ra trong thời gian tới.
PV: Trên thực tế, để có thể đạt được mục tiêu mong muốn, Việt Nam không chỉ là quyết tâm chính trị mà rất cần nguồn lực lớn cho việc thực hiện các nhiệm vụ, dự án cụ thể. Vậy, dưới góc độ nhà quản lý, ông đã có những đề xuất gì để giải quyết vấn đề này?
Ông Tăng Thế Cường:
Là bên nước đang phát triển tham gia Công ước, Việt Nam đã và đang có cơ hội tiếp cận các nguồn hỗ trợ quốc tế về tài chính, công nghệ và kỹ thuật cho thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính. Theo báo cáo kỹ thuật cho NDC của Việt Nam, nhu cầu tài chính để thực hiện đầy đủ mục tiêu giảm nhẹ cho đến năm 2030 (giảm 25% so với kịch bản phát triển thông thường - BAU) của Việt Nam lên tới hơn 21 tỷ USD. Hiện nay, hỗ trợ tài chính quốc tế dành cho Việt Nam, đặc biệt là các nguồn viện trợ không hoàn lại đã giảm mạnh hoặc không còn nữa, trong khi nguồn ngân sách trong nước hạn hẹp còn phải ưu tiên đầu tư cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và các yêu cầu cấp thiết khác.
Trong bối cảnh đó, để thực hiện giảm phát thải khí nhà kính, bên cạnh việc tiếp tục huy động và sử dụng hiệu quả nguồn hỗ trợ quốc tế, chúng ta cần triển khai một số giải pháp chính trọng tâm là ban hành Nghị định quy định lộ trình và phương thức giảm nhẹ phát thải khí nhà kính nhằm tạo tiền đề cho các Bộ, ngành và địa phương có cơ sở để triển khai các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Cùng với đó, cần sớm nghiên cứu một cách đầy đủ về cơ sở khoa học và thực tiễn, đề xuất thực hiện các cơ chế hợp tác quốc tế về trao đổi tín chỉ các bon, cũng như đề xuất thực hiện việc phát triển thị trường trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ các bon trong nước phù hợp với điều kiện phát triển trong nước và xu thế quốc tế. Đây là giải pháp mang tính dài hạn nhằm tạo ra nguồn lực hỗ trợ cho giảm phát thải khí nhà kính của các tổ chức, doanh nghiệp.
Ngày Trái đất 22/4 được Liên Hợp Quốc công nhận từ năm 2009, trở thành sự kiện thường niên được cả thế giới tổ chức, nhìn nhận về giá trị môi trường tự nhiên của Trái đất, kêu gọi sự tham gia tích cực của mỗi người để chung tay bảo vệ hành tinh. Năm 2016, Liên Hợp Quốc đã chọn Ngày Trái đất là ngày để Thỏa thuận Paris thực hiện Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu chính thức có hiệu lực.
Cuối cùng là tiếp tục cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của khối tư nhân trong việc thực hiện các dự án có tiềm năng giảm nhẹ phát thải khí nhà kính như các dự án sử dụng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng, phát triển năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời…
PV: Với nguồn lực như hiện nay và những sáng kiến thu hút nguồn tài chính trong nước, quốc tế đang còn trong dự kiến, theo ông, nhiệm vụ cấp bách trước mắt của chúng ta sẽ phải thực hiện là những nội dung gì?
Ông Tăng Thế Cường:
Trong bối cảnh các nguồn lực cho ứng phó với BĐKH nói chung và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính nói riêng đang khó khăn như hiện nay, một số nhiệm vụ quan trọng cần được ưu tiên thực hiện trong ngắn hạn, bao gồm:
Thứ nhất, cần xây dựng và hướng dẫn thực hiện các điều, khoản quy định chi tiết đối với giảm nhẹ phát thải khí nhà kính tại Việt Nam trong quá trình hoàn thiện Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi đã trình Quốc hội.
Thứ hai, khẩn trương thiết lập hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định (MRV) cấp quốc gia, tạo tiền đề để các Bộ, ngành và địa phương xây dựng hệ thống MRV cấp ngành và địa phương cho các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính cùng với việc kiện toàn hệ thống kiểm kê khí nhà kính.
Thứ ba, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn ngân sách trong nước, tăng cường hợp tác quốc tế, bao gồm đa phương và song phương về giảm phát thải khí nhà kính.
Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện các cơ chế huy động sự tham gia của doanh nghiệp và người dân trong giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Thứ năm, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thực của cộng đồng trong công tác giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và thích ứng với BĐKH.
Quảng Minh - Báo Tài nguyên & Môi trường (thực hiện)