Tin tức / Tin hoạt động
Hai năm thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP: Những kết quả bước đầu đáng ghi nhận
Ngày đăng: 19/06/2019
Trong khuôn khổ Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH chiều 18/6 tại TP.HCM, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã trình bày Báo cáo đánh giá tổng hợp kết quả thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP và các giải pháp cần thực hiện thời gian tới. Theo Bộ trưởng, sau 2 năm thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP, đã có những kết quả bước đầu đáng ghi nhận.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cùng các đồng chí lãnh đạo chủ trì Hội nghị

 

Nhấn mạnh đến vai trò của Nghị quyết 120/NQ-CP, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, Nghị quyết được ban hành đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về tư duy của các cấp, các ngành trong xây dựng chính sách, xác định các chương trình chiến lược, các dự án cấp bách. Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, chính sách, nguồn lực, quy hoạch kết nối liên vùng… Nhân dân đồng tình, ủng hộ và chủ động tham gia. Đảng bộ, chính quyền các tỉnh vùng ĐBSCL nỗ lực vươn lên vượt qua khó khăn thách thức. Các tổ chức quốc tế, đối tác phát triển đã tích cực tham gia và hỗ trợ hiệu quả. Nhờ đó, sau hai năm thực hiện Nghị quyết, chúng ta đã đạt được một số kết quả ban đầu quan trọng. Cụ thể: Hệ thống cơ chế, chính sách bước đầu được hoàn thiện, tập trung thúc đẩy phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững; phát triển hạ tầng giao thông, đô thị, ổn định dân cư; gắn kết các quy hoạch phát triển;  Thúc đẩy chuyển đổi quy mô lớn theo cơ cấu kinh tế và theo lãnh thổ trên cơ sở phát huy tiềm năng thế mạnh của vùng và từng tiểu vùng. Sản xuất nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng thủy sản, trái cây, giảm lúa; từng bước hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn, chuyên canh nông sản chủ lực gắn với công nghệ chế biến, chuỗi giá trị nông sản. Nhiều loại nông sản đã thâm nhập các thị trường khó tính: Nhật Bản, Hoa Kỳ, đưa kim ngạch xuất khẩu các nông sản chủ lực (gạo, cá tra, tôm, trái cây) đạt 8,43 tỷ USD… Kết nối liên vùng đang được thúc đẩy thông qua kết nối kinh tế, kết nối hạ tầng nội vùng và với thành phố Hồ Chí Minh. Bộ trưởng cho biết, lợi thế, sức lan toả phát triển vùng TP.HCM và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã được phát huy để hình thành khu công nghiệp, đô thị tại các tỉnh Long An, Tiền Giang, thành phố Cần Thơ… Điểm nghẽn về nguồn vốn đang được quan tâm giải quyết, đã quan tâm bố trí nguồn lực nhà nước cho phát triển vùng. Tổng số vốn đầu tư qua địa phương trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 (chưa bao gồm 10% dự phòng) là 193.967,151 tỷ đồng chiếm 16,53% so với cả nước. Vốn bổ sung cho các dự án xử lý sạt lở cấp bách nguy hiểm là 2.500 tỷ đồng. Trong khuôn khổ chương trình mục tiêu BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020, đã giao 3.700 tỷ đồng từ nguồn ngân sách trung ương cho 20 dự án tại ĐBSCL.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà trình bày báo cáo
 

Các chương trình ứng phó với BĐKH, phòng chống thiên tai, khắc phục sụt lún, sạt lở bờ sông bờ biển, bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội đang được triển khai thực hiện tập trung vào những vấn đề cấp bách; Đã khảo sát xác định 564 điểm sạt lở với tổng chiều dài trên 834 km, trong đó 57 điểm sạt lở đặc biệt nguy hiểm (sạt lở gây nguy hiểm trực tiếp đến khu tập trung dân cư và cơ sở hạ tầng quan trọng) tổng chiều dài 170 km.

Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH và Chương trình Hỗ trợ ứng phó với BĐKH hỗ trợ 28 dự án. Chương trình mục tiêu ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh hỗ trợ 20 dự án. Xử lý sạt lở cấp bách bờ sông, bờ biển, đoạn sụt lún, sạt lở trọng điểm; xây dựng bản đồ sạt lở, bố trí ngân sách xây dựng công trình phòng chống sạt lở, ưu tiên 36 dự án cấp bách. Các địa phương trong vùng cũng triển khai các dự án đầu tư nâng cấp đê biển kết hợp xây dựng hệ thống ngăn mặn, trữ ngọt...

Ban hành 20 tiêu chuẩn và chỉ dẫn kỹ thuật về sử dụng tro, xỉ, thạch cao làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng và sử dụng trong công trình xây dựng, góp phần hạn chế việc khai thác cát từ lòng sông để san nền. Công tác bảo vệ môi trường nông thôn được quan tâm, chú trọng, đặc biệt là xử lý rác thải, nước thải sinh hoạt khu dân cư và cải tạo cảnh quan. Xây dựng hệ thống cấp nước đủ công suất, đảm bảo chất lượng, đáp ứng nhu cầu nước sinh hoạt và sản xuất cho các tỉnh thành phía Tây Nam sông Hậu.

Bên cạnh đó, công tác điều tra cơ bản, quan trắc được tăng cường; số liệu, dữ liệu liên ngành được thiết lập, cập nhật và hệ thống hóa để phục vụ hiệu quả cho công tác dự báo, hoạch định chính sách; Cập nhật và từng bước hệ thống hóa số liệu điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường, dữ liệu khí tượng, thủy văn, hải văn và bùn cát, tài nguyên nước. Hoàn thành và đưa vào sử dụng Trạm vùng quan trắc môi trường Tây Nam Bộ; đang xây dựng Trung tâm tích hợp dữ liệu vùng ĐBSCL làm cơ sở cho việc tích hợp dữ liệu của các Bộ, ngành, địa phương.

Các đại biểu tham dự Hội nghị


Triển khai điều tra, đánh giá địa động lực hiện đại để hoàn thiện kịch bản BĐKH; khảo sát, đánh giá về sụt lún đất, đo kiểm tra các mốc cao độ hạng Nhà nước khu vực Nam Bộ, nghiên cứu sụt lún đất ở bán đảo Cà Mau; nghiên cứu khảo sát, đánh giá một số nguyên nhân sạt lở bờ sông, bờ biển, đề xuất các giải pháp phòng chống, đặc biệt đối với các điểm cấp bách, nguy hiểm. Xây dựng bản đồ ngập lũ năm 2018 vùng ĐBSCL.

Tăng cường mạng lưới quan trắc, giám sát các yếu tố khí tượng thủy văn, hải văn, biến động bùn cát, đo mưa tự động gồm 98 trạm khí tượng, 145 điểm đo mưa, 139 trạm thủy văn, 6 trạm hải văn và 154 điểm đo mưa, mực nước tự động, đo mặn.

Các địa phương đã điều tra, khảo sát, xây dựng bản đồ số xâm nhập mặn; đánh giá chế độ thủy văn, địa hình đáy, địa chất ven sông, kênh chính có nguy cơ sạt lở; khảo sát, đánh giá hiện trạng các nguồn khí thải ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp, hiện trạng môi trường khu vực cụm, tuyến dân cư nông thôn; chuyển giao 13/13 tỉnh, thành phố cơ sở dữ liệu cung cầu lao động

Ngoài ra, công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ được đẩy mạnh cung cấp luận cứ, sáng kiến, giải pháp, công nghệ; công tác đào tạo, chuyển đổi nghề đã được quan tâm.

Sau 2 năm thực hiện nghị quyết, hoạt động hợp tác quốc tế được thúc đẩy góp phần thu hút nguồn lực, tri thức, công nghệ cho ĐBSCL. Đã đẩy mạnh tham gia hiệu quả trong khuôn khổ hợp tác phát triển với các nước Tiểu vùng sông Mê Công và giữa các nước Tiểu vùng sông Mê Công với các đối tác phát triển. Mở rộng và tăng cường các quan hệ đối tác chiến lược (trong đó có các cơ chế hợp tác, đối tác quan trọng như Thỏa thuận đối tác chiến lược Việt Nam - Hà Lan về thích ứng với BĐKH và quản lý nước, WB, GIZ, JICA…)...

Đã hoàn thành đánh giá, đề xuất các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả Hiệp định Mê Công 1995, tăng cường hợp tác trong các cơ chế Mê Công, Mê Công - Lan Thương; thực hiện Đề án tổng thể về ảnh hưởng của phát triển thủy điện trên dòng chính sông Mê Công tới ĐBSCL.

“Nhìn chung, qua 2 năm triển khai, chúng ta đã đạt được những kết quả bước đầu. Nổi bật là: Tăng trưởng GDP của vùng ĐBSCL năm 2018 đạt mức ấn tượng là 7,8%, cao nhất trong 4 năm trở lại đây (cao hơn bình quân chung cả nước 7,08%). Kim ngạch xuất khẩu toàn vùng lần đầu tiên đạt 15,7 tỷ USD. Du lịch tiếp tục phát triển, năm 2018, đã đón hơn 40 triệu lượt khách, trong đó có khoảng 3,5 triệu lượt khách quốc tế” - Bộ trưởng Trần Hồng Hà báo cáo.

Bên cạnh những kết quả đạt được bước đầu nêu trên, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng đã phân tích một số hạn chế trong quá trình triển khai Nghị quyết. Bộ trưởng dự báo trong thời gian tới, tình hình biến đổi khí hậu, thiên tai diễn biến nhanh; các tác động dài hạn đã được dự báo, nhận diện, tuy nhiên những tác ngắn hạn là khó lường, khó dự báo do tính thất thường, cực đoan. Thách thức từ các hoạt động khai thác, sử dụng nước ở phía thượng nguồn, đặc biệt là các dự án thuỷ điện trên dòng chính sông Mê Công ngày càng phức tạp hơn. Dự báo, tình trạng thiếu cát, thiếu màu, thiếu nước sẽ còn tiếp diễn nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến phát triển ĐBSCL.

Quá trình triển khai Nghị quyết mới ở bước đầu, để đạt được mục tiêu, tầm nhìn chiến lược Nghị quyết đề ra, khối lượng thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp cần triển khai thực hiện còn rất lớn. 

Để thúc đẩy triển khai thực hiện Nghị quyết, Bộ trưởng Trần Hồng Hà đề xuất: “vấn đề cấp bách đặt ra là cần sớm nghiên cứu hình thành thể chế phù hợp cho ĐBSCL (mô hình Cao ủy Đồng bằng như ở Hà Lan) với chức năng, nhiệm vụ rõ ràng; có đủ thẩm quyền đại diện cho ĐBSCL, lựa chọn các tư vấn khoa học, tư vấn quốc tế để xác định được trọng tâm ưu tiên phát triển, đề xuất các cơ chế chính sách đặc thù, xác định được các mục tiêu ưu tiên, cũng như xây dựng các dự án đầu tư cho các công trình mang lại lợi ích liên vùng; xác định được nguồn vốn để thực hiện các chương trình, dự án tạo ra sự chuyển đổi, giải quyết căn cơ về hạ tầng giao thông, thủy lợi cho ĐBSCL. Cần xác định phát triển hạ tầng đa mục tiêu là điều kiện tiên quyết để chuyển đổi theo 3 vùng kinh tế sinh thái”.  
 

7 kiến nghị của Bộ TN&MT với Thủ tướng Chính phủ tập trung ưu tiên thực hiện trong thời gian tới:

           1. Cần xây dựng, thực hiện các dự án lớn; phát triển hạ tầng đa mục tiêu: giao thông, thủy lợi, thích ứng với biến đổi khí hậu để tạo ra chuyển đổi quy mô lớn. Rà soát, xây dựng các tiêu chí xác định và đầu tư dự án, công trình ứng phó với biến đổi khí hậu quy mô lớn, có tính chất liên vùng, có tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội; các dự án quan trọng, cấp bách trong giai đoạn 2021-2025 và đến năm 2030. Đẩy nhanh việc triển khai các chương trình, dự án ODA đã ký kết và các dự án vốn trong nước quy mô lớn để sớm phát huy hiệu quả hỗ trợ chuyển đổi sinh kế. Bổ sung chức năng, tăng vốn điều lệ cho Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam để thực hiện Quỹ hỗ trợ phát triển ĐBSCL.

          2. Cần có quy hoạch tổng thể về đất đai, tài nguyên nước, không gian biển theo 03 vùng kinh tế sinh thái. Đẩy nhanh quá trình xây dựng và phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển bền vững vùng ĐSBCL giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2050 theo phương pháp tích hợp đa ngành làm định hướng để các Bộ, ngành, địa phương rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành, lĩnh vực cũng như tạo cơ chế khuyến khích, thu hút đầu tư, tăng cường kết nối liên vùng. Triển khai Quy hoạch bảo vệ môi trường cho ĐBSCL trong giai đoạn 2021-2030.

           3. Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, nâng cao giá trị hàng hóa nông nghiệp, có cơ chế thu hút doanh nghiệp đầu tư ứng dụng công nghệ cao về thủy sản, nuôi trồng biển, phát triển du lịch sinh thái nông nghiệp, sinh thái biển. Tiếp tục cơ cấu lại ngành công nghiệp phát triển công nghiệp xanh, ít phát thải, ứng dụng công nghệ cao. Phát triển năng lượng tái tạo, bảo vệ môi trường có công nghệ xử lý rác thải đô thị, nông thôn phù hợp. Đảm bảo an toàn năng lượng thông qua phát triển, sử dụng hiệu quả năng lượng mặt trời, gió phù hợp với yêu cầu sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực đất đai.

          4. Khẩn trương rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách được giao tại Nghị quyết và Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết, đặc biệt là cơ chế chính sách huy động nguồn lực, nhất là từ khối tư nhân; đẩy mạnh triển khai hình thức đối tác công tư. Hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai để thúc đẩy tập trung đất đai, khuyến khích, thu hút dự án có tính chất động lực; cho phép tách tiểu dự án bồi thường để thực hiện trước. Huy động nguồn vốn để tạo quỹ đất bên cạnh các công trình đầu tư hạ tầng của nhà nước để đấu giá tạo nguồn lực. Nhà nước thực hiện việc bồi thường, giải phóng mặt bằng để thu hút các dự án công tư; quy hoạch các khu vực đất trồng lúa có thể chuyển đổi mục đích linh hoạt để nông dân chủ động trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo điều kiện tự nhiên của từng năm.

             5. Đẩy mạnh điều tra, đánh giá, xây dựng và triển khai tổng thể các giải pháp trữ nước dựa vào xu thế tự nhiên của từng khu vực; phòng chống sạt lở bờ sông, xâm thực biển và sụt lún đất vùng ĐBSCL. Trước mắt, tăng cường các biện pháp ứng phó với tình trạng sụt lún đất và sạt lở bờ sông, bờ biển nhằm tập trung nguồn lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để thực hiện đồng bộ các giải pháp liên ngành, liên vùng. Khẩn trương hoàn thành cơ sở dữ liệu liên ngành phục vụ công tác hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các quyết định đầu tư. Sớm hoàn thành Trung tâm tích hợp dữ liệu vùng ĐBSCL.

            6. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ 4.0; thúc đẩy hình thành các trung tâm phát triển, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ cao. Xây dựng chương trình KH&CN về thích ứng lâu dài ở ĐBSCL. Đẩy mạnh đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với thị trường xuất khẩu lao động; đổi mới công tác đào tạo, công tác truyền thông, nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền và người dân.

             7. Tăng cường hợp tác quốc tế, thiết lập các khuôn khổ hợp tác mới trong lĩnh vực BĐKH và tài nguyên nước nhằm phát huy sự hỗ trợ, đầu tư của các đối tác phát triển để phát triển bền vững ĐBSCL. Đẩy mạnh công tác điều phối các hoạt động hợp tác song phương, đa phương và với các quốc gia thượng nguồn về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên nước.

Việt Hùng - Khương Trung (lược ghi)

Các tin khác